Chính
phủ vừa ban hành Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 về chính
sách tinh giản biên chế, trong đó nêu rõ: những người đang trong thời gian
ốm đau có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền; cán bộ, công chức, viên chức
và người lao động đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi... chưa thuộc trường hợp xem xét tinh giản biên chế.
Theo
đó, đối tượng áp dụng theo Nghị định là cán bộ, công chức từ Trung ương đến cấp
xã; Viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập; Người làm việc theo chế
độ hợp đồng lao động không xác định thời hạn quy định tại Nghị định
số 68/2000/NĐ-CP ngày 17 tháng 11 năm 2000 của Chính phủ về thực hiện chế độ
hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự
nghiệp và theo các quy định khác của pháp luật; Chủ tịch công ty, thành viên
Hội đồng thành viên, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc, Giám đốc, Phó Giám
đốc, Kế toán trưởng, kiểm soát viên trong các công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên do Nhà nước hoặc do tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội làm chủ sở hữu (không bao gồm Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc, Kế toán
trưởng làm việc theo chế độ hợp đồng lao động); Những người là cán bộ, công
chức được cơ quan có thẩm quyền cử làm người đại diện theo ủy quyền
đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước; Người làm
việc trong biên chế được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao tại các hội.
Các
trường hợp thuộc diện tinh giản biên chế, gồm: dôi dư do rà soát, sắp xếp lại
tổ chức bộ máy, nhân sự theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Nhà
nước hoặc do đơn vị sự nghiệp công lập sắp xếp lại tổ chức bộ máy, nhân sự để
thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tài chính,
tổ chức bộ máy và nhân sự; Dôi dư do cơ cấu lại cán bộ, công chức, viên chức
theo vị trí việc làm, nhưng không thể bố trí, sắp xếp được việc làm khác; Chưa
đạt trình độ đào tạo theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ quy định đối với vị
trí việc làm đang đảm nhiệm, nhưng không có vị trí việc làm khác phù hợp để bố
trí và không thể bố trí đào tạo lại để chuẩn hóa về chuyên môn; Có chuyên ngành
đào tạo không phù hợp với vị trí việc làm hiện đang đảm nhiệm nên bị hạn chế về
năng lực hoàn thành công việc được giao, nhưng không thể bố trí việc làm khác;
Có 2 năm liên tiếp liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế, cán bộ, công
chức được phân loại, đánh giá xếp vào mức hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế
về năng lực hoặc có 1 năm hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực và
1 năm không hoàn thành nhiệm vụ nhưng không thể bố trí việc làm khác phù hợp;
Có 2 năm liên tiếp liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế, viên chức có 1
năm được phân loại đánh giá xếp vào mức hoàn thành nhiệm vụ và 1 năm không hoàn
thành nhiệm vụ nhưng không thể bố trí việc làm khác phù hợp; Có 2 năm liên tiếp
liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế, mỗi năm có tổng số ngày nghỉ làm
việc là số ngày nghỉ tối đa do ốm đau theo quy định tại Khoản 1 Điều 23 Luật
Bảo hiểm xã hội, có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh và cơ quan Bảo hiểm xã
hội chi trả trợ cấp ốm đau theo quy định hiện hành.
Nghị
định của Chính phủ cũng quy định cụ thể chính sách tinh giản biên chế gồm:
Chính sách về hưu trước tuổi; Chính sách chuyển sang làm việc tại các tổ chức
không hưởng lương thường xuyên từ ngân sách nhà nước; Chính sách thôi việc;
Chính sách đối với những người thôi giữ chức vụ lãnh đạo hoặc được bổ nhiệm,
bầu cử vào chức vụ khác có phụ cấp chức vụ lãnh đạo mới thấp hơn do sắp xếp tổ
chức.
Cụ
thể, những người thuộc đối tượng tinh giản biên chế có tuổi đời dưới 53
tuổi đối với nam, dưới 48 tuổi đối với nữ và không đủ điều kiện để hưởng chính
sách về hưu trước tuổi hoặc có tuổi đời dưới 58 tuổi đối với nam, dưới 53 tuổi
đối với nữ và không đủ điều kiện để hưởng chính sách về hưu trước tuổi theo quy
định, nếu thôi việc ngay thì được trợ cấp 3 tháng tiền lương hiện hưởng để tìm
việc làm và được trợ cấp 1,5 tháng tiền lương cho mỗi năm công tác có
đóng bảo hiểm xã hội.
Bên
cạnh đó, cán bộ, công chức, viên chức do sắp xếp tổ chức thôi giữ chức vụ lãnh
đạo hoặc được bổ nhiệm, bầu cử vào chức vụ mới có phụ cấp chức vụ lãnh đạo thấp
hơn so với phụ cấp chức vụ lãnh đạo đang hưởng thì được bảo lưu phụ cấp chức vụ
lãnh đạo đang hưởng đến hết thời hạn giữ chức vụ bổ nhiệm hoặc hết nhiệm kỳ bầu
cử. Trường hợp đã giữ chức vụ theo thời hạn được bổ nhiệm hoặc nhiệm kỳ bầu cử
còn dưới 6 tháng thì được bảo lưu 6 tháng.
Nghị
định này có hiệu lực từ ngày 10/1/2015. Các chế
độ, chính sách quy định tại Nghị định này được áp dụng đến hết ngày 31/12/2021./.
Xem chi tiết tại đây.